Huyền thoại thác Voi
Bằng mô-típ quen thuộc trong sáng tác những truyền thuyết và huyền thoại, các tác giả thường dựa vào những chuyện cổ tích của các dân tộc trong vùng để phác thảo nên tác phẩm của mình.
Thác Voi 1990 (photo TNT)
Ngày xưa, thác Voi rất đẹp. Những sợi dây leo dài buông thõng trở thành dây đu cho lũ trẻ. Nhiều cây cổ thụ có đường kính mấy người ôm vẫn không xuể. Hang đá sâu vào bên trong mọi người quen gọi là hang Gió vẫn còn lưu lại nhiều bao thuốc lá ngoại và đồ dùng của tàn quân FULRO. Một hang đá khá rộng, mọi người phải đi vòng qua phía phải. Một hang đá khác phải đi vòng từ phía trái xuống chân thác. Ngọn thác nhô ra, tạo thành một mái nhà. Đứng dưới thác nhìn lên thấy rất rõ một màn sương dày đặc đổ ào ạt trắng xóa trên những tảng đá hình con voi đang phủ phục, bọt nước trắng xóa bung lên cao cả mười, mười lăm nét rất hùng vĩ. Đứng trên một tảng đá dài hình con Voi phía dưới, thấy rõ cầu vồng bảy sắc vắt qua đỉnh thác. Những bụi sương lãng đãng bay quanh, tưởng ít hóa nhiều, có khi thấm đẫm cả một vạt áo, lành lạnh.
Thác Voi (ảnh chụp trong những năm 1980 của TK trước)
Chuyện cũ kể rằng: Ngày xưa lâu lắm rồi dưới chân dãy núi Voi, bên dòng Cam Ly Hạ là nơi sinh sống của buôn Nam Ban. Người K’Ho Nam Ban bao đời nay sống yên bình bên dòng suối của xứ sở mình. Con trai vào rừng sâu săn thú, con gái chuyên cần dệt vải và hái lượm. Những đêm trăng sáng họ quây quần bên chóe rượu cần, say sưa trong âm thanh của Ching Droòng, của khèn M’Buốt.
Thác Voi trong mùa mưa lũ
Chàng K’Yar và nàng Ka Yung là đôi trai tài gái sắc của buôn Nam Ban. Bao mùa rẫy đi qua, đêm đêm đôi trai gái vẫn hẹn hò cùng nhau bên suối. Núi Voi sừng sững cuối trời xa như chứng kiến lời hẹn thề muôn thuở của tình yêu. Khi ánh trăng đã treo đầu ngọn bằng lăng, chàng K’Yar cong người cất lên tiếng nhạc khèn bầu. Sáu ống nứa rung âm thanh réo rắt trôi theo dòng nước, trôi trong ánh trăng, hòa vào gió núi. Nàng Ka Yung cất tiếng hòa nhịp theo lòng. Tiếng hát tiếng khèn đồng điệu với tiếng lòng hòa quyện vào nhau hòa trong suối trăng. Âm thanh và lời ca như muốn nói rằng: Dù bao mùa rẫy đi qua, dù cho đá lở đất bồi, tình yêu của họ vẫn son sắt thủy chung như dòng Cam Ly mềm mại trôi bên dãy núi Voi sừng sững muôn đời.
Một chiếc cầu bắc qua suối xuống Thác Voi
Chim chóc từ muôn cánh rừng bay về quây quần nghe tiếng hát, tiếng khèn của đôi trai gái, cất tiếng hót véo von hòa cùng lời ca của họ. Những đàn voi rùng rùng bước xuống chân núi nằm phủ phục bên dòng Cam Ly, rung động cùng tiếng hát Ka Yung và tiếng khèn K’Yay.
Cho đến một ngày kia, một Mơ-toa khét tiếng hung ác dẫn đạo quân của hắn lên xâm chiếm cao nguyên xa xôi. Làng buôn ly tán. K’Yar và Ka Yung chỉ kịp gặp nhau bên suối, hẹn ngày tái ngộ, lại cất tiếng hát tiếng khèn đẹp dòng Cam Ly. Chàng K’Yar dẫn trai tráng đi đuổi kẻ thù giữ lấy làng buôn. Bao mùa rẫy qua, bao mùa trăng qua, buôn làng đã bình yên vậy mà chàng vẫn đi, đi mãi không về!
Nàng Ka Yung thủy chung chờ đợi, mỏi mòn trong nước mắt. Nhớ người tình xưa khuất bóng, trong một đêm trăng, nàng lại một mình tìm đến nơi hò hẹn ngày xưa. Trăng mông lung soi bóng Ka Yung lẻ loi trên mặt nước. Núi voi lừng lững lặng lẽ cuối trời xa. Nàng cất lên tiếng hát, tiếng hát cô liêu vắng tiếng khèn bầu. Những đàn chim lại tìm về nghe tiếng hát của nàng, những đàn voi phủ phục dưới chân nàng. Lời ca u uất khổ đau của nàng hòa trong tiếng chim rừng dáo dác, tiếng voi gầm rú thác loạn cùng chia sẻ nỗi niềm thương cảm với người tình nữ.
Cho đến một đêm khuya, trong tiếng hát khổ đau của nàng Ka Yung đã rung thành tiếng khóc, dòng Cam Ly bỗng nhiên rùng mình gãy khúc. Đất đá một vùng sụt lở, dòng nước đổ gầm gào cuốn trôi ào ạt. Trong đêm khuya chỉ có ngọn núi Voi chứng kiến. Sáng ra, dân làng không tìm thấy Ka Yung nhưng tiếng hát tình ca đã hòa trong nước mắt của nàng vẫn giữ lại trong cơn gào thét của dòng Cam Ly gãy khúc. Những đàn voi phủ phục dưới chân nàng đã ngấm sâu tiếng hát, ngấm nỗi khổ đau của người tình nữ đã rùng mình hóa đá để trở thành chứng tích muôn đời cho huyền thoại về mối tình thủy chung.
Chùa Linh Ẩn (Nam Ban, Lâm Hà) bên cạnh thác Voi
Chàng K’Yar và nàng Ka Yung đôi trai tài gái sắc với mối tình huyền thoại đã bay vào bầu trời cổ tích, đã hóa thân vào điệu Doslong, lời hát Yâlyau, nhưng nơi hò hẹn của họ ngày xưa thì mãi mãi vẫn còn. Dòng thác Voi cuối dòng Cam Ly vẫn ầm ào tung cầu vồng bảy sắc, tung màn bụi bạc lên đàn voi đã phủ phục vĩnh hằng. Thác Voi hôm nay vẫn còn giữ nguyên những nét hoang sơ ngự trị bên thị trấn Nam Ban như một lời mời gọi bước chân và tâm hồn du khách, mời gọi những ai muốn tìm về thiên nhiên hùng vĩ và cội nguồn của lời ca – nước mắt của nàng Ka Yung.
Những câu chuyện như thế này thường gợi lên cho người đọc những tình cảm đặt biệt về một vùng đất, về một địa danh… góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa dân gian bản địa.
Bức phù điêu ở THiền viện Trúc Lâm (TNT)
Đến với thác Voi – một thắng cảnh được xếp hạng quốc gia, nhưng còn có một ý nghĩa khác, là ngọn thác này nằm ngay trung tâm thị trấn Nam Ban, bên cạnh “đại bản doanh” ngày nào của Ban xây dựng Vùng Kinh tế mới Hà Nội tại Lâm Đồng. Bên cạnh ngọn thác Voi, giờ có thêm một ngôi chùa có tên là Linh Ẩn, với bức tượng Quan Thế Âm Bồ Tát cao nhất Việt Nam. Du khách trong và ngoài nước từng tìm đến đây thưởng ngoạn.
Chùa Linh Ẩn ở Nam Ban
Trần Ngọc Trác